Trang chủ / Học tập / Văn / Tiểu sử Hồ Chí Minh: Chặng đường cách mạng và những đóng góp vĩ đại cho đất nước

Tiểu sử Hồ Chí Minh: Chặng đường cách mạng và những đóng góp vĩ đại cho đất nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại, người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Bài viết này sẽ tìm hiểu sâu về tiểu sử Hồ Chí Minh cũng như cuộc đời, sự nghiệp cao cả của vị cha già dân tộc và những đóng góp to lớn của Người đối với dân tộc Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới.

Thời niên thiếu và hành trình tìm đường cứu nước (1890-1911)

Hoàn cảnh gia đình và những năm tháng đầu đời

Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890 tại làng Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho yêu nước. Cha Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc (tức Nguyễn Sinh Huy), một nhà nho có học vị Phó bảng triều Nguyễn năm 1901, người có tinh thần yêu nước sâu sắc. Mẹ Người là bà Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ hiền lành, đảm đang.

Sinh ra trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, Nguyễn Sinh Cung đã sớm chứng kiến những đau khổ của nhân dân và sự áp bức của thực dân. Những năm tháng tuổi thơ của Người gắn liền với quê hương Nghệ An, một vùng đất có truyền thống hiếu học và yêu nước. Năm 1895, Người theo gia đình vào Huế khi cha được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ tại kinh đô.

Quá trình học tập và hình thành tư tưởng yêu nước

Từ nhỏ, Nguyễn Tất Thành (tên Người được đổi khi vào học trường Quốc Học Huế) đã được cha dạy chữ Hán và tiếp xúc với tư tưởng Nho giáo cùng các tác phẩm văn học cổ điển. Năm 1906, Người theo học tại trường Quốc Học Huế – nơi đã đào tạo nhiều nhà cách mạng tiền bối.

Tại đây, tư tưởng yêu nước của Người được hun đúc mạnh mẽ thông qua việc tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng tiến bộ và các phong trào đấu tranh yêu nước đương thời như phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân. Người cũng bắt đầu nhận thức sâu sắc về tình cảnh đau thương của đất nước dưới ách thống trị của thực dân Pháp.

Quyết định ra đi tìm đường cứu nước

Năm 1911 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Hồ Chí Minh khi Người quyết định rời Việt Nam để tìm đường cứu nước. Với tên gọi mới là Nguyễn Tất Thành, Người đã xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và bắt đầu hành trình dài ra thế giới với một khát vọng cháy bỏng: tìm ra con đường giải phóng dân tộc.

Quyết định này xuất phát từ nhận thức sâu sắc của Người về sự thất bại của các phong trào yêu nước trước đó như phong trào Cần Vương, Đông Du. Người đã nhận ra rằng để cứu nước, cần phải tìm hiểu bên ngoài, học hỏi kinh nghiệm từ các nước tiên tiến và các phong trào cách mạng thế giới.

“Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” – Nguyễn Tất Thành đã nói với bạn bè trước khi ra đi.

Hành trình khám phá thế giới và bước đường cách mạng (1911-1941)

Những năm tháng ở nước ngoài và sự tiếp xúc với các tư tưởng tiến bộ

Từ 1911–1917, Nguyễn Tất Thành bôn ba qua Pháp, Anh, Mỹ, châu Phi, làm nhiều nghề để học hỏi và chứng kiến sự bất công của chủ nghĩa thực dân. Năm 1917, Người tới Paris, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, tham gia Đảng Xã hội Pháp, hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động sâu sắc tới tư tưởng của Người.

Tiếp xúc với chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường cách mạng vô sản

Năm 1920, sau khi đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc xác định con đường cứu nước là cách mạng vô sản. Tại Đại hội Tours (1920), Người gia nhập Quốc tế Cộng sản, đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, quyết tâm theo chủ nghĩa Mác-Lênin.

Người đã giải thích lý do chọn chủ nghĩa Mác-Lênin:

“Chủ nghĩa Lênin không những là một chủ nghĩa cách mạng của giai cấp công nhân mà còn là một chủ nghĩa cách mạng của các dân tộc bị áp bức.”

Hoạt động cách mạng tại Liên Xô, Trung Quốc và sự chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam

Giai đoạn 1923–1924, Nguyễn Ái Quốc học tập tại Liên Xô, tham gia các đại hội quốc tế. Cuối 1924, Người sang Quảng Châu (Trung Quốc), thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và viết “Đường Kách mệnh” (1927), đào tạo cán bộ, chuẩn bị lực lượng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Sáng lập Đảng Cộng sản và lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1930-1945)

Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Ngày 3/2/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, xác định mục tiêu cách mạng là giành độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước và thời kỳ hoạt động ở nước ngoài

Từ 1930–1938, Người hoạt động quốc tế, xây dựng quan hệ cách mạng, từng bị Anh bắt tại Hồng Kông (1931–1933) và học tập tại Liên Xô. Năm 1938, Người trở lại Trung Quốc để gần phong trào trong nước, lãnh đạo các cao trào 1930–1931, phong trào dân chủ 1936–1939, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa..

Về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng và Cách mạng Tháng Tám thành công

Tháng 1/1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), thành lập Việt Minh, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Khi Nhật đảo chính Pháp (1945), Người phát động Tổng khởi nghĩa. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Lãnh đạo hai cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước (1945-1969)

Xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp

Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng chính quyền cách mạng, chống “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Ngày 19/12/1946, Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, mở đầu cuộc chiến chống Pháp. Với đường lối toàn dân, toàn diện, trường kỳ, Người lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi Điện Biên Phủ (7/5/1954), buộc Pháp ký Hiệp định Genève, công nhận độc lập Việt Nam.

Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước

Sau Hiệp định Genève, Người lãnh đạo miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện cải cách ruộng đất, phát triển giáo dục, y tế, kinh tế, đồng thời chỉ đạo cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam chống Mỹ, cứu nước với khẩu hiệu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Di sản tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm về giải phóng dân tộc, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, xây dựng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và Đảng vững mạnh. Về đạo đức, Người là tấm gương mẫu mực về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, suốt đời đấu tranh vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.

Những đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc và thế giới

Đóng góp đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cách mạng đúng đắn, lãnh đạo nhân dân giành độc lập, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đặt nền móng cho thắng lợi trọn vẹn của cách mạng giải phóng dân tộc, dẫn tới thống nhất đất nước (30/4/1975) với khẩu hiệu bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Đóng góp đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

Người tích cực tham gia Quốc tế Cộng sản từ những năm 1920, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin cho các dân tộc thuộc địa. Cách mạng Việt Nam thành công đã cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới, đặc biệt tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.

Đóng góp đối với nền văn hóa Việt Nam và văn hóa nhân loại

Hồ Chí Minh được UNESCO vinh danh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Người xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển ngôn ngữ, sáng tác nhiều tác phẩm giá trị và là tấm gương đạo đức, biểu tượng hòa bình, độc lập dân tộc trên toàn thế giới.

Cùng chuyên mục